Quyền tài sản là gì? Vấn đề xung quanh đến quyền sở hữu tài sản
Trong tất cả các bộ luật, bộ quyền của Việt Nam thì có thể nói quyền tài sản là một trong những quyền lợi ích nhất đối với người dân, con người. Quyền tài sản có thể coi là một sản phẩm tài sản vô hình và nó đặc biệt đã được nhà nước quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của bộ luật nhà nước Việt Nam. Vậy quyền tài sản là gì? Và liệu nó có quan trọng đến người sở hữu hay không. Hãy cùng nhay tham khảo bài viết dưới đây của timviec365.vn.
1. Quyền tài sản là gì?
Theo bộ luật của Việt Nam thì quyền tài sản là một bộ quyền có thể định giá được bằng tiền boặc cũng có thể được chuyển giao trong giao lưu dân sự, kể cả đó là quyền sở hữu trí tuệ đi chăng nữa. Trước đó thì theo điều 127 của bộ Luật Việt Nam về quyền tài sản thì có quy định như sau: Tài sản sẽ là một loại tài sản, và sẽ được đặt cạnh tiền để phân biệt với những vật có thực hiện tại. Trong quá trình sửa đổi về Bộ luật Dân Sự ở nước ta thì các điều luật như thế này sẽ được giữ nguyên, và riêng về định nghĩa luật tài sản có lẽ sẽ được bộ luật sửa đổi lại một chút. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì việc sửa đổi ấy cũng sẽ không gây ảnh hưởng gì nhiều đến quyền sở hữu tài sản. Và quyền này có thể được coi là một công cụ để có thể phân biệt được tài sản. làm việc như một chức năng công cụ phân biệt tài sản, về khái niện đến quyền tài sản trong bộ Luật của Việt Nam có lẽ sẽ tiếp tục là một vấn đề gì đó lạ mắt và cần phải thay đổi trong mắt các nhà luật học.

Vì chế định tài sản và quyền sở hữu có tầm ảnh hưởng rất lớn tới các chế định khác trong pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng. Nên trong bất kỳ Bộ luật Dân sự nào, từ Bộ luật Dân sự năm 1995, đến Bộ luật Dân sự năm 2005 và gần đây nhất là Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các chế định như chế định về thừa kế, chế định về hợp đồng, đặc biệt là chế định về tài sản và quyền sở hữu luôn giữ vị trí trọng tâm của Bộ luật. Khi xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ dân sự và giao lưu dân sự ngày càng được mở rộng thì chế định tài sản và quyền sở hữu lại là chế định cơ bản, quan trọng nhất trong Bộ luật Dân sự nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu tài sản, bảo đảm trật tự trong giao lưu dân sự. Trước yêu cầu thể chế hoá đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như các tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu trong đó có quyền sở hữu về tài sản, quyền bình đẳng giữa các chủ thể đã được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết số 48/2005/NQ- TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2021 và Nghị Quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2021, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi sâu phân tích về chế định tài sản và quyền sở hữu được quy định trong Bộ luật Dân sự qua các thời kỳ, trong đó trọng tâm nhấn mạnh chế định tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2015.
Việc làm luật - pháp lý tại Hồ Chí Minh
2. Một số hạn chế của quy định thiện hành về quyền thế chấp tài sản
Nếu xem xét kỹ các quy định của Bộ luật Dân sự và Nghị định 163, có thể dễ dàng nhận thấy còn thiếu rất nhiều quy định cho việc thế chấp quyền tài sản. Về các quy định chung, pháp luật hiện hành chưa nêu ra được các nguyên tắc áp dụng cho loại hình tài sản đặc biệt này.
Thực vậy, dường như các quy định về thế chấp chỉ mới hướng tới các tài sản hữu hình, chứ chưa thật sự đề cập tới các tài sản vô hình như quyền tài sản. Chẳng hạn nếu đọc các điều từ Ðiều 348 tới Ðiều 351 của Bộ luật Dân sự về quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp và bên nhận thế chấp, rất khó tìm ra các quy định có thể đưa vào phần tương ứng của một hợp đồng thế chấp quyền tài sản nhất định để bảo đảm cho một hợp đồng tín dụng. Tương tự, nếu chỉ áp dụng các quy tắc của phần xử lý tài sản bảo đảm trong cầm cố, thế chấp của Nghị định 16311, thì cũng chưa thể quy định thỏa đáng trong hợp đồng về hệ quả pháp lý của giao dịch thế chấp quyền tài sản.
Về các quy định riêng, như đã nêu ở trên chỉ có thế chấp quyền đòi nợ và thế chấp quyền sử dụng đất được quy định tại Bộ luật Dân sự và Nghị định 163. Các văn bản pháp luật chuyên ngành (Luật Doanh nghiệp đối với phần vốn góp, Luật Sở hữu trí tuệ đối với quyền sở hữu trí tuệ, Luật Kinh doanh bảo hiểm đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, Luật Thương mại đối với quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, vv...) theo đánh giá của các nhân, như vậy sẽ còn khá là thiếu sót với biện pháp giao dich đảm bảo này.

Thực ra, quyền tài sản với tính chất là các tài sản vô hình khi ra đời đã làm thay đổi quan điểm về tính chất hữu hình của tài sản. Trong một thế giới đang chứng kiến sự bùng nổ các công nghệ và kỹ thuật hiện đại, vai trò của các tài sản vô hình ngày một tăng lên. Các quyền tài sản ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của một doanh nghiệp. Việc huy động được nguồn tài sản hữu ích này vào việc bảo đảm các quan hệ tín dụng sẽ góp phần thúc đẩy đáng kể tăng trưởng doanh nghiệp. Pháp luật phải đi liền và thích ứng để điều chỉnh kịp thời được những xu hướng phát triển mới. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm liên quan đến thế chấp quyền tài sản cũng không nằm ngoài xu hướng này.
3. Một số giao dich đảm bảo với quyền tài sản
Như đã phân tích ở phần bên trên thì các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh các giao dịch thế chấp quyền tài sản vẫn còn rất hạn chế. Nhận xét này sẽ được minh họa cụ thể thông qua việc tìm hiểu các quy tắc về thế chấp một số loại quyền tài sản nêu tại Ðiều 322 của Bộ luật Dân sự.
3.1. Thế chấp quyền sở hữu trí tuệ
Mặc dù ở bộ Luật Việt Nam trong quyền ở hữu tài sản, điều 322 – bộ Luật dân sựu đã liệt kê ra rõ ràng như sau: Các quyền mà sở hữu trí tuệ sẽ được sử dụng mà làm tài sản bảo đảm, Ở Luật Sở hữa trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29/11/2005 đã được sửa đổi vào năm 2019, mà trong đó bộ luật đã không đề cập đến việc thế chấp các quyền sở hữu như thế này. Thực tế là vậy, với Luật Sở hữu trí tuệ thì chỉ có quy định về việc chuyển nhượng quyền tác giả mà thôi (đã ghi rõ ở điều 45 và điều 46), Bằng với việc định đoạt lại đối tượng sở hữ công nghiệp thông qua việc chuyển giao cho quyền sở hữu đó.
Cũng không có bất cứ quy định nào về việc xác lập và hệ quả pháp lý của giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ trong các văn bản hướng dẫn thi hành luật này như Nghị định 100/2006/NÐ-CP của Chính phủ ngày 21/09/2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan được sửa đổi năm 2011, Nghị định 103/2006/NÐ-CP của Chính phủ ngày 22/09/2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp được sửa đổi năm 2010 hay Nghị định 88/2010/NÐ-CP của Chính phủ ngày 16/08/2010 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với giống cây trồng.

Hơn nữa, theo quy định tại khoản 6, Ðiều 3, Thông tư số 05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại Trung tâm Ðăng ký giao dịch, tài sản của Cục Ðăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện tại Trung tâm Ðăng ký giao dịch, tài sản của Cục Ðăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp chứ không phải tại Cục sở hữu trí tuệ như thông lệ tại nhiều nước trên thế giới.
3.2. Thế chấp quyền đòi nợ
Trong số các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm, quyền đòi nợ là một quyền tài sản hiếm hoi được quy định riêng trong Nghị định 163 cả ở phương diện xác lập hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ lẫn quá trình xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ. Tuy vậy, các quy định này chưa đề cập hết các khía cạnh giao dịch bảo đảm này. Chẳng hạn về tính đối kháng với bên có nghĩa vụ trả nợ, Ðiều 22 khoản 2 điểm b và Ðiều 22 khoản 3 điểm b của nghị định này quy định bên nhận thế chấp phải cung cấp thông tin về việc thế chấp quyền đòi nợ, nếu bên có nghĩa vụ trả nợ yêu cầu và bên có nghĩa vụ trả nợ có quyền yêu cầu bên nhận thế chấp cung cấp thông tin về việc thế chấp quyền đòi nợ và nếu bên nhận thế chấp quyền đòi nợ không cung cấp thông tin thì có quyền từ chối thanh toán cho bên nhận thế chấp.
Quy định tại Ðiều 22 về nghĩa vụ cung cấp thông tin hay quyền được cung cấp thông tin chưa cụ thể vì chưa nêu rõ những thông tin được bên nhận thế chấp cung cấp cho bên có nghĩa vụ trả nợ là gì. Nghĩa vụ cung cấp thông tin là một nghĩa vụ rất quan trọng nhưng lại chưa được quy định thực sự rõ ràng và khả thi.
Thực ra, nội dung của việc cung cấp thông tin cho bên có nghĩa vụ trả nợ chỉ nên dừng lại ở việc thông báo có giao dịch bảo đảm đối với quyền đòi nợ. Hơn nữa, nên quy định rõ giá trị pháp lý của việc cung cấp thông tin này và về điểm này không nhất thiết phải quy định việc cung cấp thông tin là một nghĩa vụ của bên nhận thế chấp quyền đòi nợ.
Thực vậy, nếu nghĩa vụ cung cấp thông tin về việc xác lập giao dịch thế chấp quyền đòi nợ trở thành điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ thì thời điểm để xác định xem một giao dịch thế chấp quyền đòi nợ có được xác lập kể từ ngày có quyết định mở thủ tục phá sản theo Ðiều 31 của Luật Phá sản hay không lại chính là thời điểm thực hiện việc thông báo này. Ðiều này rất bất lợi cho bên nhận thế chấp bởi vì nếu không thực hiện việc thông báo cho bên có nghĩa vụ trả nợ ngay sau khi hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ được xác lập thì giao dịch thế chấp quyền đòi nợ có nguy cơ rơi vào thể loại giao dịch bị cấm hay bị hạn chế theo quy định của pháp luật phá sản.
Việc làm nhân viên tư vấn luật
4. Lợi ích của bộ quyền sở hữu tài sản
Từ những phân tích ở trên có thể thấy quyền tài sản là một loại tài sản đặc thù với rất nhiều tiểu quyền khác nhau. Cho nên, sẽ rất khó có thể đưa ra một mô hình thế chấp quyền tài sản chung cho tất cả các quyền tài sản. Thiết nghĩ, với việc sửa đổi Bộ luật Dân sự, nhà làm luật nên xây dựng những nguyên tắc cơ bản cho biện pháp thế chấp quyền tài sản và có những quy định riêng cho từng loại quyền tài sản hoặc ít ra có những định hướng cần thiết cho việc áp dụng các quy định liên quan.

Các văn bản pháp luật chuyên ngành cũng nên được sửa đổi theo hướng ghi nhận việc thế chấp quyền tài sản của Bộ luật Dân sự và quy định chi tiết việc xác lập và hệ quả pháp lý của từng loại hình thế chấp quyền tài sản mà các văn bản này điều chỉnh. Nếu làm được điều này, sẽ tạo được tính an toàn pháp lý cao hơn cho các giao dịch thế chấp quyền tài sản, giúp bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo đảm trong đó có các ngân hàng khi xử lý tài sản bảo đảm, trong và ngoài thủ tục phá sản.
Bài viết trên của timviec365.vn hi vọng đã giải đáp phần nào thắc mắc cho các bạn về Quyền tài sản là gì? Từ đó các bạn có thể xác định hướng được tương lai của mình. Timviec365.vn cũng là một trang web hàng đầu chuyên đăng tin tuyển dụng, là cầu nối giữa ứng viên vpoiws nhà tuyển dụng, giups các bạn dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm công việc của mình. Chúc các bạn thành công với timviec365.vn!
Bài viết liên quan
Từ khóa liên quan
Chuyên mục